Nông nghiệp bền vững và thách thức biến đổi khí hậu
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, nông nghiệp vừa là nguồn phát thải khí nhà kính lớn, vừa là ngành chịu nhiều tổn thương nhất. Ở Việt Nam, sau mỗi vụ lúa, vụ ngô, đất canh tác thường bị bỏ trống suốt mùa đông. Thực trạng này dẫn đến: Đất trống dễ bị xói mòn, rửa trôi dinh dưỡng; suy giảm chất hữu cơ, đồng thời phát thải CO₂, N₂O do đốt rơm rạ, hoặc tàn dư thực vật phân hủy không kiểm soát. Vì vậy, việc tìm kiếm giải pháp che phủ đất bằng các cây trồng ngắn ngày, vừa bảo vệ đất vừa tạo giá trị sinh thái - kinh tế, đang trở thành hướng đi chiến lược.
|
 |
Đậu tương, cây che phủ đất lý tưởng |
Cây che phủ đất - “áo giáp xanh” cho đồng ruộng
Cây che phủ đất là nhóm cây được trồng xen, gối vụ hoặc trong thời gian đất bỏ trống để:
- Che phủ bề mặt đất, giảm xói mòn, rửa trôi.
- Hạn chế cỏ dại, tiết kiệm công lao động và hạn chế sử dụng thuốc BVTV.
- Giữ ẩm, cải thiện cấu trúc đất, tăng đa dạng sinh học đất.
- Tăng tích lũy các-bon trong đất, góp phần giảm phát thải khí nhà kính.
Ở nhiều quốc gia phát triển, cây che phủ là một thành tố quan trọng trong nông nghiệp các-bon (Carbon Farming). Ở Việt Nam, mô hình luân canh “Lúa - Lúa - Cây vụ đông (đậu tương/ngô/rau màu)” từng được triển khai rộng rãi, đem lại hiệu quả kinh tế và cải tạo đất. Tuy nhiên, những năm gần đây, diện tích cây vụ đông có xu hướng giảm ở một số địa phương. Trong bối cảnh chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh, việc khôi phục và phát triển cây vụ đông là giải pháp quan trọng để tăng tích lũy các-bon trong đất, giảm phát thải và hướng tới sản xuất bền vững.
|
 |
Nghiên cứu chọn giống đậu tương làm cây che phủ đất |
Đậu tương đông – lựa chọn tối ưu trong hệ thống canh tác Việt Nam
Trong số các cây vụ đông, đậu tương đông (gieo sau vụ hè thu, thu hoạch trước vụ xuân) nổi bật nhờ nhiều ưu thế:
· Phù hợp thời vụ: Khoảng trống từ tháng 9-12 ở miền Bắc rất thuận lợi.
· Nguồn dinh dưỡng tự nhiên: Nốt sần rễ cộng sinh với vi khuẩn Rhizobium cố định hàng chục kg N/ha/vụ, giảm nhu cầu phân đạm hóa học cho vụ sau.
· Sinh khối hữu cơ dồi dào: Thân, lá, rễ phân hủy bổ sung mùn và khoáng cho đất.
· Khả năng che phủ tốt: Tán lá rậm, khép nhanh, hạn chế cỏ dại và giảm bốc hơi nước.
· Lợi ích kép: Vừa tạo sản phẩm hàng hóa (thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu công nghiệp), vừa cung cấp giá trị sinh thái.
· Dễ dàng cơ giới hoá: việc canh tác đậu tương có thể dễ dàng cơ giới hoá, giảm sự phụ thuộc vào sức lao động con người.
Lợi ích của đậu tương đông đối với môi trường và đất
· Tăng độ phì nhiêu đất: Đất sau nhiều vụ lúa/ngô liên tục dễ nghèo kiệt hữu cơ, trồng đậu tương đông giúp phục hồi độ mùn.
· Giữ ẩm và giảm xói mòn: Hệ rễ chằng chịt, che phủ mặt đất hạn chế dòng chảy mặt.
· Giảm sử dụng phân bón và thuốc BVTV: Đậu tương đông bổ sung dinh dưỡng tự nhiên, đồng thời che phủ đất hạn chế cỏ dại, sâu bệnh.
· Tích lũy các-bon trong đất: tăng khả năng giữ C trong đất, thúc đẩy giảm phát thải và tạo tín chỉ các-bon, mở ra cơ hội thương mại hóa giá trị môi trường thông qua cơ chế tín chỉ các-bon, nâng cao thu nhập cho người sản xuất
Nghiên cứu phục hồi cây vụ đông
Đậu tương đông không chỉ là cây trồng truyền thống mà còn được coi là “cây chiến lược” cho nông nghiệp các-bon. Việc trồng đậu tương đông vừa cải tạo đất, tăng thu nhập, vừa tạo ra tín chỉ các-bon, nguồn giá trị mới trong bối cảnh kinh tế xanh và thị trường tín chỉ các-bon phát triển.
|
 |
TS. Vũ Duy Hoàng và nhóm nghiên cứu thăm mô hình đậu tương theo hướng che phủ đất, giảm phát thải |
Tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, TS. Vũ Duy Hoàng và cộng sự đã phối hợp với nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp, cùng TS. Nguyễn Văn Mạnh (Viện Di truyền Nông nghiệp) triển khai nghiên cứu phục hồi cây vụ đông, trong đó trọng tâm là cây đậu tương. Các hướng nghiên cứu chính bao gồm:
- Chọn tạo giống: Ưu tiên giống ngắn ngày, khả năng cố định đạm cao, tích lũy sinh khối nhanh, phù hợp làm cây che phủ đất.
- Xây dựng phương pháp MRV (Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định): Phát triển quy trình giám sát và tính toán tín chỉ các-bon từ cây đậu tương.
Kết quả nghiên cứu ban đầu rất khả quan, đã xác định được một số giống đậu tương phù hợp làm cây che phủ đất và tích luỹ các-bon. Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục thử nghiệm trong điều kiện sản xuất thực tế và hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng, đo đạc cũng như tính toán tín chỉ các-bon, tạo tiền đề cho mở rộng mô hình. Điều này mở ra cơ hội gia tăng thu nhập từ tín chỉ các-bon, góp phần khuyến khích nông dân duy trì và mở rộng diện tích cây vụ đông.
Vũ Duy Hoàng - khoa Nông học