Nhóm Nghiên cứu Công nghệ canh tác nông nghiệp bền vững, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, đã tổ chức buổi seminar khoa học thường kì tháng 11 năm 2025. Buổi seminar được bài trình bày chuyên sâu từ ThS. Nguyễn Thị Phượng và Học viên Zhu Dalin, mang đến cái nhìn toàn diện về những thách thức trong sản xuất nông nghiệp cộng đồng và nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học tại các khu vực miền núi.

Nghiên cứu nâng cao chất lượng hạt giống rau địa phương


ThS. Nguyễn Thị Phượng, Bộ môn Rau hoa quả và Cảnh quan trình bày báo cáo 

Phần trình bày đầu tiên, do ThS. Nguyễn Thị Phượng, Bộ môn Rau hoa quả và Cảnh quan, thực hiện với tiêu đề "Nghiên cứu nâng cao chất lượng hạt giống rau địa phương trong cộng đồng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam" , đã nêu bật một vấn đề cấp thiết: chất lượng hạt giống tự để – nguồn giống chính của các cây trồng địa phương – ngày càng giảm. Nguyên nhân được xác định là do người dân địa phương thiếu kỹ thuật sản xuất giống, điều kiện thời tiết bất thuận, biến đổi khí hậu, và khó khăn trong trồng trọt, xử lý, bảo quản giống.

Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu đã đánh giá quy trình sản xuất hạt giống rau do Viện Nghiên cứu Rau quả xây dựng trong điều kiện nông hộ, áp dụng phương pháp có sự tham gia của nông dân. Cụ thể, sau khi được tập huấn, người dân tự thực hiện các kỹ thuật dưới sự hỗ trợ trực tiếp của cán bộ nghiên cứu ngay tại ruộng gia đình. Nghiên cứu được triển khai giai đoạn 2020 – 2023 tại Mai Sơn (Sơn La) và Sa Pa (Lào Cai), trên ba nhóm dân tộc Thái, Dao, H’Mông, với hai cây trồng là cải Mèo (cải H’Mông) và đậu cô ve leo.

Kết quả cho thấy, quy trình mới đặc biệt phù hợp hơn với cây cải Mèo và hiệu quả đạt được cao hơn ở Mai Sơn so với Sa Pa. Với cải Mèo, tỷ lệ hình thành cây con (có chất lượng tốt) sau bảo quản đạt trên 60% ở năm thứ nhất và 50% ở năm thứ hai ở cả 3 nhóm dân tộc. Đáng chú ý, nhóm Thái (Mai Sơn) có tỷ lệ cao hơn nhưng cao hơn đáng kể so với nhóm H’Mông ở Sa Pa, nơi tỷ lệ này luôn dưới 50%. Đối với đậu cô ve leo, tỷ lệ hình thành cây con đạt cao nhất ở nhóm Thái (trên 70%) và thấp nhất ở nhóm H’Mông (dưới 40%). ThS. Phượng chỉ ra rằng, nguyên nhân chính của tỷ lệ cây con thấp ở Sa Pa là do mưa nhiều trong thời gian quả già, thu hoạch và phơi (thời gian phơi hạt trung bình trên 15 ngày), khiến hạt giảm sức sống nhanh. Nghiên cứu đi đến kết luận quan trọng: chất lượng hạt giống sản xuất ở điều kiện nông hộ phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện trước và ngay sau thu hoạch hơn là điều kiện bảo quản. Hơn nữa, sự tham gia chủ động của người dân đã giúp nâng cao nhận thức, cải thiện kỹ thuật và góp phần bảo tồn các giống rau địa phương một cách bền vững.

Chia sẻ kinh nghiệm đa dạng thực vật cao nguyên Thanh Hải – Tây Tạng


học viên Zhu Dalin- từ trường đại học Tây Nam Tứ Xuyên, Trung Quốc trình bày

Tiếp nối chương trình, học viên trao đổi ngắn hạn Zhu Dalin- từ trường đại học Tây Nam Tứ Xuyên, Trung Quốc- đã chia sẻ những kinh nghiệm quý báu từ nhiều năm nghiên cứu đa dạng thực vật tại khu vực miền Tây Tứ Xuyên thuộc Cao nguyên Thanh Hải – Tây Tạng. Với niềm đam mê khám phá thiên nhiên và kinh nghiệm trong ngành nông nghiệp, học viên Zhu Dalin đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc về thảm thực vật đặc trưng của vùng cao nguyên này.

Bài chia sẻ bao gồm tổng quan về Cao nguyên Thanh Hải – Tây Tạng và Tây Tứ Xuyên, sau đó, tác giả đã trình bày những bức ảnh tinh xảo do chính ông chụp về các loài thực vật phổ biến. Các nhóm thực vật được giới thiệu bao gồm:

  • Cây cảnh: Đỗ quyên (rhododendrons), hoa anh thảo (primroses), long đởm (gentianas), rận nước (pedicularises), hài (cypripediums), và anh túc Himalaya (meconopsises).
  • Cây dược liệu: Bối mẫu (fritillaries) và Sinopodophyllum hexandrum.
  • Cỏ chăn nuôi: Nhiều loài quan trọng thuộc họ Cỏ, họ Đậu và họ Cói.

Đặc biệt, tác giả còn giới thiệu về các loài cây có lá nhiều màu sắc và một loài phong lan mới (Gasrochilus jiuzhaigouensis) do chính ông phát hiện, thể hiện sự đóng góp tích cực của ông vào lĩnh vực phân loại và bảo tồn thực vật.

Buổi seminar đã khép lại, để lại nhiều thông tin giá trị về cả khoa học nông nghiệp ứng dụng và đa dạng sinh học tự nhiên, củng cố cam kết của Nhóm Nghiên cứu Công nghệ canh tác nông nghiệp bền vững, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, đối với việc phát triển nông nghiệp thân thiện với môi trường và bảo tồn tài nguyên sinh học.

Nhóm NCM Công nghệ Canh tác Nông nghiệp Bền vững